MỘT SỐ NGÔI CHÙA Linh sơn cổ tự nằm trên đường Hoàng Hoa Thám, tuy không đồ sộ, rộng lớn nhưng là ngôi.
Download ReportTranscript MỘT SỐ NGÔI CHÙA Linh sơn cổ tự nằm trên đường Hoàng Hoa Thám, tuy không đồ sộ, rộng lớn nhưng là ngôi.
MỘT SỐ NGÔI CHÙA Linh sơn cổ tự nằm trên đường Hoàng Hoa Thám, tuy không đồ sộ, rộng lớn nhưng là ngôi chùa lâu đời nhất ở Vũng Tàu. Lúc đầu chùa được xây dựng trên triền núi nhỏ nhưng năm 1919 khu vực này bị người dân Pháp chiến dụng để xây cất biệt thự cho hoa tiêu họ ở. Ngay sau đó một ngôi chùa khác đã được xây dựng và tồn tại cho tới ngày nay. Trong chánh điện có một thờ một tượng Phật cao 1,2m bằng đá có phết vàng được điêu khắc rất khéo léo tạo nên vẻ từ và sống động trên nét mặt của đức Phật. Về nguồn gốc của pho tượng phật, có truyền thuyết kể lại rằng cách đây hơn một năm có đoàn ghe chài lưới từ miền trung vào đánh cá ở Bãi Trước. Trong khi đi kiếm củi ở núi lớn tình cờ phát hiện hai pho tượng phật bằng đá vùi dưới đất trên sườn núi gần bãi Dâu. Họ cùng nhau đào lên rồi chờ đến hôm sau làm lễ xin đem về. Dân địa phương biết tin vội kéo đến xem và cho rằng đó là di tích lịch sử của địa phương nên cương quyết đòi giữ lại. Nhóm dân chài miền trung năn nỉ mãi mới lấy được pho tượng nhỏ đem đi. Pho tượng lớn còn lại được dân làng rước về thờ chính là pho tượng hiện nay ở chùa Linh Sơn Cổ Tự. Niết Bàn Tịnh Xá nằm ở trung tâm Bãi Dứa, toạ lạc trên triền núi, hướng mặt ra biển. Ở vào vị trí nên thơ đó, Niết Bàn Tịnh Xá có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Di tích này được khởi công xây dựng năm 1969, đến năm 1974 mới hoàn thành. Đây là một công trình đồ sộ gồm nhiều phân, nhiều cấp, toạ lạc trên diện tích gần 10.000m2. Lối lên rộng rãi, dọc theo triền dốc. Cổng chính nổi bật với bốn chữ Hán: Niết Bàn Tịnh Xá. Hai trụ cổng được khắc đôi câu đối đầy ý nghĩa : Niết Bàn thị hiện, độ chúng niệm phật tâm thôn, chân giải thoát. Tịnh xá quang minh, vô lậu giác ngộ chánh pháp, hiển như lai. Tổ đình Thiên Thai - nằm ở phía Bắc chân núi Dinh Cố (ấp 3 xã Tam An, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ) - được khởi công xây dựng năm 1925 bởi Hoà Thượng Thích Huệ Đăng. Nhưng mảnh đất này trước đó đã là nơi trì niệm của sư tổ Huệ Đăng. Phía sau Tổ Đình có Thạch Động. Thạch Động được tạo dựng công phu trong hang đá, là nơi Hoà Thượng Huệ Đăng sông tu hành trong điều kiện lúc đầu chưa dựng được ngôi chùa như hiện nay. Tổ đình Thiên Thai toạ lạc trên diện tích tương đối rộng (6ha), được chia làm 4 khu vực chủ yếu đó là : điện chính (Thiên Thai), Thạch Động, Thiên Khánh và Thiên Bửu Tháp (được xây dựng năm 1936). hai câu đối bằng chữ Hán trước cửa Thạch Động: "Tá thạch vi tường thục lão tăng cùng đáo đế, Vĩ phong tác chiến thuỳ chi đại đạo lạc vô cương"(tạm dịch: Đá mượn làm tường, ai có biết lão tăng nghèo đến thế; Gió dùng thay quạt, người đâu hay đạo lạc vô cương.) Cụ tổ Thiên Thai đạo hiệu Huệ Đăng (ngọn đèn Huệ soi sáng mãi tương lai ), tên thật là Lê Quang Hoá, sanh năm 1873 tại xã An Đông, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định. Lê Quang Hoá tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp từ năm 17 tuổi. Năm 1895 phong trào chống Pháp của Phan Đình Phùng thất bại. Nhiều cơ sở, tổ chức ở Bình Định bị phá vỡ, anh em chiến sỹ bị bắt, bị tù đày. Ông tìm đường vào Nam và đi tu. Nhưng hoài niệm cứu nước vẫn canh cánh trong lòng bậc chân tu, thể hiện trong cuộc sống, trong giảng dạy đạo pháp Phật giáo cho đệ tử, đã đào tạo được nhiều tăng ni yêu nước. Những người trụ trì Thiên Thai đều thực hiện theo tinh thần đạo pháp gắn với dân tộc. Sư tổ Huệ Đăng vốn quen biết cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Hồi đầu mới dựng chùa, cụ phó bảng có ghé thăm và ở lại Thiên Thai một đêm để đàm đạo với Huệ Đăng. Rời tổ đình Thiên Thai, du khách rẽ trái theo con đường tam cấp uốn lượn quanh núi Dinh Cố lên cao 82m để chiêm ngưỡng toàn cảnh đồng bằng trù phú Long Đất,Tân Thành vàn xa xa là Xuyên Mộc mờ ảo... Trên đỉnh núi Dinh Cố có một ngôi miếu được xây dựng công phu trên những khối đá lớn, tương truyền đó là miếu thờ một hiền nữ, còn gọi là Dinh Cố. Không biết trước khi có danh sơn trên, núi Dinh Cố còn có tên gọi nào khác ? Một số người say mê tìm hiểu lịch sử địa phương cho rằng núi Dinh Cố xưa được gọi là núi Bà Rịa. Nếu quả thật như vậy thì giữa ngôi miếu thờ một hiền nữ không tên không tuổi được sử tịch ghi chép và lưu truyền kia với Bà Rịa, một nhân vật lịch sử có thật có mối quan hệ gì chăng? Núi Dinh Cố không cao lớn, hình dáng như một chiếc nón khổng lồ úp trên cánh đồng Tam An. Lên Dinh Cố, du khách không quên vào miếu Hiền Nữ thắp hương. Theo nhân dân Tam An, từ khi Bà Cố qua đời ngọn núi này trở nên linh thiêng. Người ta truyền rằng đến đây dâng hương, cầu mong cuộc sống gặp nhiều may mắn, hạnh phúc sẽ được toại nguyện. Những huyền thoại thần bí về Bà Cố có thể đã được nhân dân thêu dệt thêm rất nhiều, âu đó cũng là mơ ước về con người tư đức, công hạnh để nhân dân tôn kính ngưỡng mộ. Thích Ca Phật đài Nằm phía Bắc dưới chân núi Lớn, Thích Ca Phật Đài là một di tích lịch sử văn hóa và là một thắng cảnh rất nổi tiếng của thành phố Vũng Tàu. Du khách đến Thích Ca Phật Đài theo đường Lê Lợi, rẽ về đường Trần Phú hoặc từ đường Trần Phú bãi Trước theo đường ven biển đi qua bãi Dâu, tới địa phận Bến Đá là gặp Thích Ca Phật Đài. Thích Ca Phật Đài tọa lạc trên diện tích rộng chừng 5ha, phía dưới là Thiền Lâm tự phía trên là Thích Ca Phật Đài. Vào khoảng năm 1957, nơi đây còn hoang sơ với ngôi chùa Thiền Lâm khiêm tốn. Năm 1962, Giáo hội Phật giáo lập đồ án xây dựng Thiền Lâm tự thành Thích Ca Phật Đài. Sau hơn một năm xây dựng, tháng 3-1963, Thích Ca Phật Đài được khánh thành. Không giống với những ngôi chùa Phật giáo khác, điểm đặc biệt trong kiến trúc của Thích Ca Phật Đài là một quần thể kiến trúc điêu khắc tạo dựng theo sự tích cuộc đời Đức Phật Thích Ca gắn liền hài hòa với cảnh quan núi Lớn. Toàn bộ khuôn viên Thích Ca Phật Đài như một vầng trăng khuyết chia thành ba cấp theo hình tháp, cao dần từ 3m đến 29m so với mực nước biển. Cấp 1 là Tam quan và khu vườn hoa. Cấp 2 là khu nhà mát và nhà trưng bày truyền thống. Cấp 3 là Thiền Lâm tự và khu Phật tích, bao gồm các công trình kiến trúc-điêu khắc. MỘT SỐ CHÙA Ở Chùa thường được gọi là chùa Bà, tọa lạc trên núi Bà Đen, thuộc xã Ninh Sơn, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Với chiều cao 986m so với mực nước biển, núi Bà Đen là ngọn núi cao nhất Nam Bộ. Chùa Linh Sơn Tiên Thạch, thường gọi là chùa Phật, chùa Thượng, chùa Bà, cùng với chùa Hang (chùa Linh Sơn Long Châu) và chùa Trung (chùa Linh Sơn Phước Trung) là những ngôi chùa nổi tiếng ở khu danh thắng núi Bà Đen. Chùa do Thiền sư Đạo Trung - Thiện Hiếu thuộc chi phái Thiền Liễu Quán khai sơn vào giữa thế kỷ XVIII. Nguyễn Quyết Chiến trong bài Hệ thống tự viện núi Bà Đen trong tiến trình lịch sử (Báo Giác Ngộ ngày 22-02-1997) đã cho biết 11 đời trụ trì chùa như sau : Đạo Trung - Thiện Hiếu (1783-1806), Thanh Thanh (1806-1832), Hải Hiệp (1832-1857), Thanh Thọ Phước Chí (1857-1878), Chơn Thoại - Trừng Tùng (1879-1910), Chánh Khâm - Tâm Hòa (1910-1937), Nguyên Cơ - Giác Phú (1937), Nguyên Thần - Giác Hạnh (1937-1938), Giác Ngọc (1938-1951), khuyết trụ trì (1951-1957), Huệ Phương (1957-1962), Diệu Nghĩa (từ năm 1962 đến nay). Chùa Linh Sơn Tiên Thạch - Tây Ninh Theo tài liệu Truyền thuyết về Bà Đen (Báo Tây Ninh xuất bản năm 1998) thì cô gái Lý Thị Thiên Hương vốn nhan sắc mặn mà ở huyện Quan Hóa (nay là huyện Trảng Bàng) đính hôn cùng Lê Sĩ Triệt, chàng trai văn võ song toàn. Giữa buổi loạn ly, chàng Lê Sĩ Triệt gác tình riêng lên đường tòng quân cứu nước. Thiên Hương, một hôm lên núi viếng chùa thì gặp bọn cường sơn thảo khấu chặn đường uy hiếp. Sức yếu thế cô, nàng đành phải nhào xuống vực sâu quyên sinh. Đêm ấy, nhà sư trụ trì ngôi chùa trên núi được nàng báo mộng. Hôm sau, ông xuống vực sâu tìm và đem xác nàng đi an táng. Nàng rất linh hiển, luôn phù độ cho nhân dân trong vùng được nhiều ân phước. Người dân lập điện thờ Bà trên núi, từ đó núi có tên là núi Bà Đen. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, xưng hiệu là Gia Long, tưởng nhớ đến chuyện khi bôn tẩu khắp miền Nam, lúc đến núi được Bà mách bảo nên thoát nạn, liền sai Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Thành Gia Định, lên núi làm lễ sắc phong cho Bà danh hiệu Linh Sơn Thánh mẫu, đặt tên chùa Bà Linh Sơn Tiên Thạch Tự và tạc tượng Bà bằng đồng để nhân dân chiêm bái, phụng thờ. Săc phong đó về sau bị thất lạc. Đến đời Bảo Đại, vua tái sắc phong cho Bà. Chùa Phước Lưu nằm cạnh quốc lộ 22A, tại trung tâm Thị trấn Trảng bàng, đối diện với bệnh viện và sân vận động Trảng Bàng.Giữa thế kỷ thứ XIX, chùa Phước Lưu được xây dựng. Ban đầu chỉ là một cái am nhỏ gọi là Am Bà Đồng, sau này được xây dựng thành chùa nên có tên gọi là Chùa Bà Đồng. Năm 1900, Tổ trường Lục thuộc đời thứ 42 phái Liễu quán đã quyên góp tài chính của phật tử địa phương và cộng đồng người Hoa ở Trảng Bàng sửa chữa và mở rộng chùa và đặt tên là chùa Phước Lưu. Từ lúc xây dựng đến nay đã qua 5 lần trùng tu sửa chữa vào các năm 1943, 1946, 1975 và 1990. Đây là một ngôi chùa được xây dựng bề thế, khang trang. Hệ thống tượng Phật và các đồ thờ tự có giá trị cao so với các chùa phật ở Tây Ninh. Ngoài tượng Phật Di Lặc, có tượng Di đà tam tôn bằng gốm thếp vàng được mang từ Trung Quốc sang (gốm sứ đời Thanh). Với 15 tượng Phật được làm bằng chất liệu đất nung gốm sứ đời Thanh (chế tác từ Trung Quốc). Chùa Phước Lưu là nơi có nhiều tượng Phật cùng nhiều hiện vật cổ, có giá trị nghệ thuật cao như: 4 bàn tủ khảm trai, bộ tràng kỷ mặt đá. Đặc biệt có 2 đĩa lớn (đường kính 55cm) 2 choé lam lớn (đường kính 63cm, cao 53cm). Với những hoạ tiết, hoa văn đường phủ men lam là những hiện vật cổ có giá trị độc đáo. Với lối kiến trúc đẹp, hoà với tổng thể thiên nhiên. Ngôi chùa đã được giới thiệu trong quyển "Việt Nam danh lam cổ tự". CẨM PHONG TỰ (Chùa Quan Huế) Cẩm Phong Tự là một ngôi chùa cổ trên 100 năm, được xây dựng vào năm 1848 , thuộc Phật giáo Nam tông, phái cổ Môn Sơn. Chùa toạ lạc tại ấp Cẩm Thắng , xã Cẩm Giang, huyện Gò Dầu, nằm cạnh quốc lộ 22B và sông Vàm Cỏ Đông, cách Thị xã Tây Ninh chừng 15km. Cẩm Phong tự gồm 3 lớp nhà hình chữ Tam, vách tường gạch, mái lợp ngói âm dương, mặt hướng Đông – Nam, hậu giáp sông Vàm Cỏ Đông, khuôn viên rộng 2000m2 . Với 3 tháp cổ của các vị tổ: Quan Huế, Hòa thượng Phước Khánh Minh Lộc (1858-1906), Hòa Thượng Cửu An (1877-1947). Qua thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, chùa còn lưu giữ được nhiều đồ thờ tự quý hiếm: Đức Đại tự (1989), Tiểu hồng chung (1905) do Phật tử Trần Văn Tài và bà Võ Thị Y Phụng cúng. Cẩm Giang là lỵ sở của tỉnh tây Ninh vào cuối thế kỷ XVIII, gồm 2 huyện Quang Hoá (Cẩm Giang) và Tân Ninh (Thị xã Tây Ninh). Cùng với Bảo Quang Hoá, trung tâm dân cư thời bấy giờ. Nơi đây thuận lợi về giao thông thuỷ, bộ, nằm trên trục đường kinh lý cửa xứ thần từ Cao Miên đi qua về Gia Định và ra Huế. Nhiều quan Triều đình Huế được cử vào trấn nhậm tại đây. Đặc biệt là 3 anh em nhà họ Huỳnh: Huỳnh Công Giản , Huỳnh Công Thắng và Huỳnh Công Nghệ. Trong các quan triều Huế trấn nhậm ở đây có người sau khi về nghỉ đã xây dựng ngôi chùa này. Do nằm cạnh sông Vàm Cỏ Đông có nhiều hoa lục bình tim tím nở quanh năm nên gọi là Cẩm Phong tự. Còn nhân dân thì gọi là chùa Quan Huế (vì do vị quan triều đình Huế vào xây dựng và trụ trì). CHÙA KHƠME Ở KHE-ĐON Chùa Khơme được xây dựng tại ấp Khe-Đon, xã Tân Thành, Huyện Hoà Thành, nằm trên tỉnh lộ 4. Khe-Đon là một địa danh nằm phía Bắc Núi Bà Đen. Từ lâu tại đây có nhiều phum sóc của người Khơme sinh sống. Trên đất Tây Ninh ngoài cụm dân cư Khơme ở Khe-Đon còn có một số cụm dân cư Khơme sinh sống như ở Bàu Ếch, Trường Hòa, huyện Hòa Thành, các xã biên giới Hoà Thạnh (Châu Thành), Kà ốt, Tân Đông (Tân Châu), Hoà Hiệp (Tân Biên)... Chùa Khơ-me ở Khe-Đon được xây cất bằng gạch, mái lợp ngói, kiến trúc theo kiểu chùa có nhiều lớp mái dốc, đã lượt bớt những hoạ tiết, hoa văn, chạm trổ không giống và quy mô như các chùa Khơme ở Sóc Trăng và Trà Vinh. Đồ thờ tự cũng đơn giản hơn các chùa Khơ-me ở Nam bộ. Sau năm 1975, ngôi chùa này được xây cắt lại trên nền chùa cũ. Lễ hội tại chùa chủ yếu là tết Chôm-thơ-nam-thơmây - Tết rước nước đầu năm, theo phong tục người Khơ-me để cầu nguyện cho mưa thuận, gió hoà, cây cối xanh tươi, con người khoẻ mạnh. Lễ Tết này được tổ chức vào các ngày từ 13 đến 15 tháng 4 (âm lịch) hàng năm. Cộng đồng người Khơ-me tại đây hiện có chưa đến 100 hộ, nhưng họ vẫn bảo lưu được các tập quá, phong tục và sinh hoạt văn hoá cộng đồng được tựu trung tại chùa Khe-Đon. TỪ LÂM TỰ (Chùa Gò Kén) Gò Kén tên một địa danh. Nơi đây có nhiều cây kén lá xanh, trái chín như quả hồng đào, mọc trên gò đất rộng, nằm cạnh quốc lộ 22B nên gọi là Gò Kén. Chùa Từ Lâm được xây cất tại đây, nên có tên gọi là chùa Gò Kén. Ngôi chùa toạ lạc tại xã Hiệp Tân, huyện Hoà Thành. Ngôi chùa này do Gíac Hải Từ Phong Hiệp cùng tín đồ Phật tử xây dựng vào cuối thế kỷ thứ XIX. Từ thị xã Tây Ninh, hướng về Thành phố Hồ Chí Minh độ chừng 5km, trên quốc lộ 22B. Con đường đất đỏ bên phải dẫn vào chùa với hai hàng cây xanh rợp bóng mát. Trên khuôn viên rộng 20.00 m2 , có trồng nhiều cây ăn quả. Mặt tiền ngôi chùa gồm 3 gian, chạy dài 6 gian. Có Đông Lang và Tây Lang, cửa mái bao quanh. Dáng dấp Từ Lâm Tự là kiến trúc phương Tây, mái lợp ngói. Cách bài trí và thờ phượng có khác với những chùa khác ở Tây Ninh. Chính điện thờ Đức A-di-đà, Quan âm, Thế chí (bên trên) và Thích ca, Ca diếp, A-nan (bên dưới). Hai bên vách thờ Thập Bát La Hán, Đạt Ma Tổ Sư, địa tạng và bày rõ cảnh thập điện. Bàn thờ chính giữa chùa có tượng Tiêu Diện đại sĩ đứng nhìn ra, đối diện là Hộ Pháp Già Lam. Bàn Thờ trước Già Lam có tượng đức Ngọc Hoàng ngồi giữa, nam Tào, Bắc đầu hai bên. Ngoài các đồ thờ tự: Lư hương, chân đèn, còn có trống sấm và đại hồng chung cổ. Ngoài sân chùa có 2 Bảo Tháp của tổ sư Yết Ma Lượng (xây dựng năm 1925) và Hoà Thượng Giác Hải (xây 1939). Từ Lâm Tự là nơi mà Cao Huỳnh Cư, Cao Hoài Sang và Phạm Công Tắc mượn làm nơi khai đạo Cao Đài Tây Ninh từ 15 tháng 10 Bính Dần (1926) đên rằm tháng giêng Đinh Mão (1927). HIỆP LONG CỔ TỰ Hiệp Long Cổ Tự là một ngôi chùa cổ , toạ lạc tại phường III, Thị xã Tây Ninh, cạnh quốc lộ 22 B, nằm trên một gò đất cao, có khuôn viên gần 10.000 m2, nhiều cây cổ thụ. Mặt chính quay về hướng Đông Nam, kiến trúc có 3 gian, mặt tiền chạy suốt 3 lớp nhà được xây dựng bằng gạch, mái lợp ngói âm dương, cột gỗ tròn. Nơi đây còn lưu giữ nhiều bức đại tự và câu đối, sơn son thếp vàng, chạm khắc tinh xảo. Nhiều pho tượng cổ với đồ thờ tự quý hiếm. Phật giáo Tây Ninh có 2 phái: phái Cổ Môn Sơn và Lục Hoà Tăng (Phật giáo tiểu thừa Nam Tông). Hiệp Long Cổ tự thuộc phái Lục Hoà Tăng được xây dựng vào năm 1889. Chùa được tu bổ thường xuyên, nhưng vẫn giữ được kiến trúc cổ, hàng năm thu hút đông đảo khách thập phương đến lễ bái và vãng cảnh. THE END