Transcript here

CHUONG 6
SỰ TÀNG TRỮ CỦA
NUỚC DUỚI ÐẤT
A. PHÂN LOẠI NƯỚC DƯỚI ĐẤT THEO CÁC ĐIỀU
KIỆN TÀNG TRỮ
Tiêu chuẩn của sự phân chia này là các đặc
điểm về thủy lực của nước dưới đất.
•
•
•
•
•
Nước thượng tầng là nước nằm trong đới không bão
hòa nước (đới thông khí), đới chứa nước này có lớp đá
cách thủy (sét) lót phía dưới với diện phân bố hẹp.
Dưới nước thượng tầng là nước ngầm.
Nước ngầm là vĩa nước bão hòa gần mặt đất nhất và
có mặt thoáng, đới chứa nước này có lớp đá cách thủy (sét)
lót phía dưới với diện phân bố rộng rãi.
. Nước ngầm (cũng là nước thượng tầng) là nước không áp
lực.
Nước tự lưu là vỉa nước bị kẹp giữa 2 lớp đá cách
thủy (sét không thấm) và có áp lực (có mặt áp lực).
CÁC ĐIỀU KIỆN TÀNG TRỮ CỦA NƯỚC DƯỚI ĐẤT
(NƯỚC THỔ NHƯỠNG)
(ĐỚI THÔNG KHÍ, THIẾU BẢO HOÀ)Ø
(GƯƠNG NƯỚC NGẦM)
(ĐỚI BẢO HOÀ)
(SÔNG HOẶC HỒ)
Trong các loại cơ bản, Ôpsinicôp còn phân ra 2 phụ
loại; tùy thuộc vào đặc điểm cấu tạo của tầng chứa
nước
- Nước lỗ hổng
•
- Nước khe nứt.
•
Nước lỗ hổng tồn tại trong các lỗ hổng
có kích thước và hình dạng khác nhau của
đá chứa nước.
•
Nước khe nứt tồn tại trong các khe nứt
có nguồn gốc khác nhau của đá chứa nước.
B. ĐẶC ĐIỂM CỦA TỪNG LOẠI NƯỚC DƯỚI ĐẤT:
I. NƯỚC THƯỢNG TẦNG:
Nước thượng tầng nằm trên thấu kính không thấm nước
có diện phân bố giới hạn
•
•
•
•
•
Do điều kiện tàng trữ của mình, nước thượng
tầng có những đặc điểm sau:
- Diện phân bố bị hạn chế của mặt nước, thành
phần, trữ lượng của nó phụ thuộc bởi khí hậu.
- Rất dễ bị nhiễm bẩn bởi các loại nước khác
như nước thổ nhưỡng, nước lầy ...
- Trong đa số trường hợp, nước thuộc loại này
không thể làm nguồn cung cấp nước thường xuyên
được.
Nguồn cung cấp cho nước thượng tầng là nước khí
quyển (nước mưa, nước tuyết tan).
2. Nước thổ nhưỡng:
• Nước thổ nhưỡng là nước nằm trong lớp thổ
nhưỡng. Lớp thổ nhưỡng là phần trên cùng
của vỏ phong hóa, trong đó thường chứa ít
nhiều mùn do cây cỏ bị phân giải thành.
Loại nước này tồn tại dưới dạng: nước liên
kết, nước mao dẫn, hơi nước. Tất cả chúng
đều tạo nên độ ẩm của lớp thổ nhưỡng, song
chỉ có nước mao dẫn là giúp cho thực vật
phát triển.
•
Khi khu vực ở vào giai đoạn mưa, trong lớp
thổ nhưỡng còn có nước thấm lọc và nước
chảy rò. Chính các loại nước này gây ra hiện
tượngg rửa lửa thổ nhưỡng. Kết quả của các
quá trình rửa lửa là một số cation như K+, Na+,
Ca++, Fe++, ... bị mang xuống sâu, khỏi lớp thổ
nhưỡng.
•
Trong những vùng mà mặt thoáng nước
ngầm gần mặt đất thì lớp thổ nhưỡng có thể
nằm trùng với đới mao dẫn .
3. Nước lầy
• Vùng lầy là một vùng mặt đất có phần đất đá trên
cùng thừa ẩm với sự tạo thành một lớp than bùn
dầy(>30cm) và hệ thống rễ cây phát triển chỉ trong
lớp than bùn ấy, không đạt đến nền đá gốc phía
dưới.
•
Cần phân biệt vùng lầy và vùng đất bị lầy
hóa. Vùng đất lầy hóa là vùng có lớp than bùn
mỏng (< 30 cm) và hệ thống rễ cây đạt đến tầng đá
gốc phía dưới.
•
Tuy nhiên, cách phân chia như vậy là chỉ ước
lẹ, vì lầy hóa chỉ là giai đoạn đầu của lầy.
•
Hiện tượng lầy hóa có thể xuất hiện trong những
vùng sau đây:
•
- Tại những vùng có lớp cách thủy (sét) nằm
gần mặt đất. Lớp cách thủy này ngăn không cho
nước ngầm hoặc nước khí quyển thấm sâu xuống phía
dưới, làm cho phần đất trên cách thủy này luôn luôn
thừa ẩm, gây ra lầy hóa mặt đất ở đây.
•
- Tại những chỗ lộ nước (nguồn nước) có điều
kiện thuận lợi phát triển lầy hóa phần bề mặt quanh
nguồn nước.
•
- Tại phần cuối của nón phóng vật
MỘT ĐIỂM LỘ NƯỚC (HÀM THUẬN NAM-BÌNH THUẬN)
Nước trong các dải cát, đụn cát ở bờ biển:
•
Trong các dãi cát, đụn cát ven biển thường
có những tầng nước ngọt. Bề mặt thoáng của
tầng nước lượn theo bề mặt của đụn cát
•
Nguồn cung cấp của nước ngọt là nước khí
quyển, một phần ít hơn thì được thấm từ những
vùng cao lân cận.
•
Các nghiên cứu đã xác định rằng, trong
những đụn cát và đảo cát như vậy, nước ngọt sẽ
dần dần được thay thế bằng nước mặn ở độ sâu
nào đấy. Ta có thể xác định được độ dày của
lớp nước ngọt này
•
•
•
•
•
Giả sử lớp nước ngọt
phân bổ đến độ sâu H so với
mực nước biển và phần dâng
lên của nước ngọt là h. Khi
đó, do tỷ trọng của nước biển
trung bình bằng 1,024, còn
nước ngọt bằng 1, nên ta có
thể viết phương trình sau:
1(h1 + h2) = 1,024H.
Từ đó rút ra:
h1 = 0,024H  1/42 H.
Nước này có độ khoáng
hóa tăng theo chiều sâu. Khi
khai thác nước ngọt, không
nên lấy với lưu lượng lớn, nếu
không độ khoáng hóa của nó
sẽ tăng lên.
H
II. NƯỚC NGẦM:
•
•
•
Nước ngầm là lớp nước đầu tiên kể từ mặt đất xuống.
Nó tàng trữ trong lớp đá chứa nước (cát, cát kết), mà phía
dưới là lớp đá không chứa nước (sét, phiến sét). Phía trên
của lớp nước ngầm không bị phủ bởi lớp cách thủy, do đó
bề mặt của nước ngầm thì thoáng, không có áp lực. Nước
ngầm thường không phân bố trong toàn bộ lớp chứa nước
Bề mặt của nước ngầm gọi là gương hoặc là mặt
thoáng của nước ngầm. Lớp đất (hoặc đá) chứa nước ngầm
gọi là lớp chứa nước hay tầng chứa nước. Lớp không
thấm nước phía dưới tầng chứa nước gọi là lớp cách thủy
(lớp sét, đá nguyên khối).
2. Các loại nước ngầm chủ yếu:
•
•
•
•
•
Người ta quan sát thấy có những
loại nước ngầm chủ yếu sau:
- Nước ngầm bồi tích
- Nước ngầm trầm tích băng hà
- Nước ngầm ở vùng đồng cỏ, bán
sa mạc và sa mạc
- Nước ngầm ở miền núi.
III. NƯỚC TỰ LƯU (NƯỚC ACTÊZI):
•
•
Nước tự lưu là nước
dưới đất có áp lực và
tàng trữ giữa 2 lớp vật
liệu không thấm nước
Khi có lỗ khoan được
đặt vào tầng nước tự lưu,
thì nước này dưới áp lực
của mình sẽ dâng cao lên
khỏi mái tầng chứa
nước, có khi dâng lên
khỏi mặt đất dưới dạng
giếng phun.
IV. NƯỚC KHE NỨT:
• Nước khe nứt là nước tàng trữ trong các đá mácma, biến
chất và trầm tích nứt nẻ.
•
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh người ta chia ra 3 loại
khe nứt chính:
•
- Khe nứt kiến tạo liên quan với sự thành tạo các cấu
tạo.
•
- Khe nứt nguyên sinh liên quan với sự thành tạo đất
đá.
•
- Khe nứt phong hóa được tạo nên trong quá trình
phá hủy đá khi phong hóa.
•
Thường chúng ta gặp sự tổ hợp của 3 loại khe nứt
trên. Mức độ nước chứa của đá nứt nẻ phụ thuộc rất lớn
vào loại khe nứt và sự liên hệ giữa chúng với nhau.
IV. NƯỚC KHE NỨT (tt.)
•
Nước trong 3 loại khe nứt trên có mối liên hệ thủy lực
với nhau, vì vậy mà trong nhiều trường hợp thành phần
hóa học của chúng nhiều màu sắc.
•
Nguồn bổ sung của nước khe nứt chủ yếu là nước khí
quyển. Điều kiện bổ sung phụ thuộc vào địa hình và đặc
điểm của lớp phủ đệ tứ. Nước khí quyển ngấm xuống
mạnh nhất tại các vùng phân thủy, nơi các nứt nẻ lộ ra
ngoài.
•
Khi thăm dò nước khe nứt nhất thiết phải nhớ rằng có
thể giếng hay lỗ khoan xuyên qua bên cạnh các khe nứt
chứa nước
V. NƯỚC CASTƠ:
•
•
•
•
•
•
•
•
1. Các điều kiện thành tạo nước Castơ:
Nước Castơ là nước tàng trữ trong các hốc rãnh và hang động,
được tạo nên trong các quá trình rửa lửa và hòa tan đá vôi đôlômit,
thạch cao, anhydric, và các loại muối (muối ăn ...).
Người ta đã xác định được các nhân tố chính gây ra các quá trình
castơ như sau:
1. Sự có mặt các đá hòa tan như: đá vôi, đôlômit, thạch cao,
anhydric, các loại muối.
2. Độ nứt nẻ, độ lỗ hổng, độ thấm nước cả các loại đá ấy, tạo
điều kiện để nước khí quyển, nước bề mặt ngấm vào đá.
3. Các chuyển động thăng trầm của vỏ trái đất xác định sự phát
triển hoặc ngừng phát triển castơ.
4. Sự có mặt của các dòng nước chuyển động gây ra sự rửa lửa
của đất đá.
5. Cấu tạo địa chất chung, địa hình và khí hậu vùng phát triển
castơ, làm tăng hoặc giảm quá trình castơ hóa.
Nước ăn mòn đá vôi diễn ra theo phương
trình sau đây:
•
CaO3 + H2O + CO2
Ca2+ + 2HCO3•
Quá trình này sẽ không tiếp tục nữa nếu
trạng thái cân bằng của phương trình không bị
phá hủy.
Muốn cho quá trình tiếp tục diễn
ra theo chiều từ trái sang phải, nghĩa là theo
chiều nước tiếp tục ăn mòn đá vôi, thì những
sản phẩm ăn mòn phải được mang đi. Điều
này được thực hiện bởi dòng nước trong đó có
castơ. Nếu nước không ở trạng thái chuyển
động thì quá trình cũng sẽ bị “ngưng đọng”
lại.
•