Transcript File
Chương 8: Sự Gây Quái Thai, Đột Biến Và Ung Thư (Teratogenesis, Mutagenesis and Carcinogenesis) Giới thiệu về sự gây quái thai, đột biến và ung thư o Kiến thức cơ sở: Muốn hiểu sâu các cơ chế của sự gây quái thai, đột biến và ung thư , cần nhớ lại: - Tế bào: sinh dưỡng (tế bào xôma, somatic cell) và tế bào sinh dục nguyên thủy (tế bào mầm, germ cell hay giao tử, gamete) - Cơ chế mà các thông tin di truyền được nhân lên (sự tái bản, replication) và gửi đi (sự phiên mã, transcription và sự dịch mã, translation) o Tại sao cần? Các độc chất có thể phản ứng (react) hoặc sửa đổi (modify) các phân tử của sự sống—acid deoxyribonucleic (DNA) hoặc acid ribonuclecic (RNA)— dẫn đến những ảnh hưởng đột ngột lên cá thể bị tiếp xúc hay con cháu của họ o Là gì? - Sự gây quái thai: Sự sinh ra của những bào thai dị dạng (khiếm khuyết sinh sản, birth defect) do tác nhân gây quái thai làm thay đổi sự biệt hóa tế bào bình thường hay các quá trình sinh trưởng bình thường - Sự gây đột biến: Sự sinh ra một sự biến đổi trong mã di truyền và sự thay đổi này được gởi qua các “tế bào con” trong qúa trình phân chia tế bào - Sự gây ung thư: Sự tạo thành các khối u ác tính do có sự tạo thành không kiểm soát được tế bào Sự tái bản o Sự phân bào nguyên nhiễm: Để tạo tế bào sinh dưỡng. Hai tế bào con có chính xác cùng số nhiễm sắc thể (2n, lưỡng bội hay diploid) như ở tế bào mẹ nguyên thủy các nội dung di truyền của mỗi tế bào con phải đồng nhất với tế bào mẹ. Kết qủa trên có được từ sự tái bản, một qúa trình sao đôi DNA của tế bào. Khi được tái bản, mỗi bộ của DNA xoắn chặt vào nhau thành hai thanh nhiễm sắc (đơn thể nhiễm sắc, chromatid) ghép vào nhau ở tâm động (centromere) để tạo thành một nhiễm sắc thể lưỡng trị (bivalent chromosome) hay nhiễm sắc thể tứ tử (tetrad chromosome). Ký hiệu , đặc trưng của nhiễm sắc thể lưỡng trị sinh dưỡng ở người, tượng trưng DNA đã tái bản với mỗi bên của nhiễm sắc thể, và , minh họa một thanh nhiễm sắc của DNA. Trong qúa trình phân bào nguyên nhiễm, nhiễm sắc thể lưỡng trị sẽ phân tách ở tâm động của chúng và, khi hoàn thành, mỗi tế bào con sẽ “thừa hưởng” một nữa của o Sự phân bào giảm nhiễm: Để tạo giao tử (gamete) đực và cái (tức là sự tạo tinh trùng và trứng). Tế bào con được tạo thành chỉ từ một bộ của các nhiễm sắc thể chỉ có 23 nhiễm sắc thể (n, haploid, đơn bội) không đồng nhất về số nhiễm sắc thể hay nội dung di truyền so với tế bào mẹ Sự phiên mã và sự dịch mã Cần nhớ lại: DNA và RNA Nucleotide Nucleoside Các purine (adenine và guanine) và các pyrimidine (cytosine, thymine và uracil) cũng như sự kết cặp A-T và G-C Gene Codon (genetic code) O HO Heterocyclic base o PO OH CH2 O N 4' 1' 3' OH OH A nucleotide o -N-Glycosidic linkage .. . O . ..... H H3C N N H N N H ..... .. N N N O Thymine Adenine Sự gây quái thai °Quái thai học là một ngành học nghiên cứu những dị thường phát triển ở bào thai. °Trên toàn thế giới, tỷ lệ sự dị thường bẩm sinh là 2% của tất cả trường hợp sơ sinh. ° Mặc dầu những nghiên cứu trên động vật cho thấy có nhiều tác nhân hoá học, vật lý và sinh học có thể gây quái thai , chỉ có tương đối ít trong số đó được chứng minh là tác nhân gây quái thai cho người. ° Vì không thể thử nghiệm trên người, các nhà nghiên cứu phải dựa vào sự xem xét dân số, những nghiên cứu về thời gian đã qua (retrospective studies) cũng như sự thẩm tra những ảnh hưởng bất lợi đã được báo cáo về những tác nhân gây quái thai bị nghi ngờ. Chứng cứ có được từ những cách tiếp cận như vậy tạo cho các nhà độc học và các nhà dịch tễ học khả năng để suy ra những mối quan hệ “liên đới” Sự tạo thành các bộ phận chuyên biệt của cơ thể (Xem hình 8-3) °Sự gây nên quái thai là kết quả sinh ra khi những con đường phát triển bị tắt, bị làm chậm lại hoặc bị biến đổi thành một con đường khác. °Sự bất thường phát sinh bao gồm sự tạo thành dị dạng trong tử cung (in utero) ở sự phát triển một vùng của cơ thể, một cơ quan hoặc một phần của một cơ quan Các yếu tố gây quái thai (Hình 8-4) Yếu tố thời điểm Giai đoạn phôi (8 tuần đầu) tức là giai đoạn tạo mô và cơ quan (giai đoạn cửa sổ). Kết quả: (1) sự tạo thành cơ quan bị dị dạng, (2) sự tạo thành cơ quan bị chậm lại hoặc (3) sự tử vong của phôi hay thai [Chú ý: Thời kỳ thai (fetal stage, tuần 9 đến 38) hiếm khi dẫn đến những sai sót nghiêm trọng của sự tạo hình. Tuy nhiên , chúng có thể dẫn tới ung thư, sai lệch chức năng của cơ quan hay hệ thống cơ quan và phát triển bất bình thường. Sự phát triển chức năng bị làm chậm lại là điều rất rõ rệt ở CNS, vì nó không trưởng thành được nhiều năm sau khi sinh] Yếu tố liều: Không quá cao để làm chết phôi và không qúa thấp để không gây ảnh hưởng (Với liều cao, các tác nhân gây quái thai thường làm chết phôi (chết trứng đã thụ tinh hay chết phôi trong 8 tuần đầu). Nguời ta ước lượng có khoảng 15-25% của tất cả sự thai nghén bị sẩy thai tự phát trong vòng 8 tuần đầu. Tỷ lệ phần trăm này có thể làm cho chúng ta đánh giá thấp sự chết phôi do các chất gây quái thai bởi vì sự chết phôi thường xảy ra mà không hề được chú ý hoặc xảy ra dưới dạng rong kinh nặng) Những kết quả sinh ra có thể kể đến như: Thiếu hoàn toàn một cơ quan Giảm toàn bộ hay một phần kích thước của một cơ quan Sự chia tách không thành Cơ quan nằm ngoài vị trí bình thường Cơ chế Cơ chế của hoạt động gây quái thai phải bao gồm một số dạng của sự nhiễm độc tế bào. Vì sao? Với một tốc độ được biết là rất cao của sự phân bào trong thời kỳ tạo mô và tạo cơ quan, bất kỳ một tác nhân gây quái thai nào mà quấy rối các quá trình của sự phân bào, sự tái bản, sự phiên mã và sự dịch mã, cũng có thể gây sai sót cho sự tạo hình (morphogenesis). Các nhà độc học mô tả đã nhận biết được nhiều tác nhân gây quái thai nhưng phần lớn những cơ chế sinh học mà qua đó những tác nhân này gây quái thai cho người cũng như các loài khác thì vẫn còn chưa được biết rõ Các ví dụ ° Thalidomide: Thuốc loại trừ những triệu chứng ốm nghén trong qúy đầu của sự mang thai. Chỉ với một viên trong thời kỳ tay, tai và tim đang được tạo thành, cũng sẽ đưa đến sự tạo thành quái thai (không có tay, tai nhỏ hoặc không có và tim bất bình thường) (HÌnh 8-5) Thalidomide không cho thấy tính gây quái thai trong những thí nghiệm trên chuột nhắc và chuột. Tuy nhiên, đối với động vật có vú (chẳng hạn như khỉ đuôi sóc) sự gây quái thai lại quan sát được (Hình 8-6) Sau ba thập niên nghiên cứu cẩn thận, cơ chế chính xác của sự nhiễm độc vẫn còn chưa được biết Các ví dụ (Tiếp theo) ° Diethylstibestrol (DES): o Thuốc chống sẩy thai để điều trị cho những trường hợp mang thai có nguy cơ cao. DES có liên quan đến một số trường hợp dị dạng đường sinh dục khi sinh nở và cũng đã được chỉ ra là một chất gây quái thai “chậm” (quan sát thấy ở con gái khoảng từ 17 đến 22, là con của những người có mẹ đã sử dụng DES trong thời kỳ mang thai). o Sự gây quái thai chậm làm sinh ra một khối u ung thư, xuất hiện gần như ở tất cả phụ nữ đã bị tiếp xúc với DES khi còn ở trong bào thai (in utero) o Mặc dầu những sự nghiên cứu trên chuột cho thấy một mối quan hệ liều–đáp ứng, cơ chế của sự gây quái thai vẫn chưa được biết Các ví dụ (Tiếp theo) ° Hội chứng nhiễm độc thai do rượu (FAS, fetal alcohol syndrome) o Uống những thức uống có cồn trong thời kỳ mang thai (đặc biệt là ở qúy đầu) có thể dẫn đến một số dị dạng hoặc phát triển bất thường như môi trên bị mỏng, đầu nhỏ, hàm nhỏ, môi trên kém phát triển, sự chậm phát triển trong tử cung và lệch chức năng CNS. o Tỷ lệ FAS ở châu Âu và Hoa Kỳ là 1–3 trên 1000 trường hợp sinh và còn sống, ở một số nơi mà sự tiêu thụ rượu lớn, tỷ lệ này là 20–150 trên 1000. Xấp xỉ 30–50% những phụ nữ uống nhiều hơn 450 mL “whiskey” một ngày sẽ sinh một đứa con nhiễm FAS. o Bất chấp sự nghiên cứu sâu rộng, cơ chế của sự gây quái thai vẫn còn là điều bí mật Sự gây đột biến ° Các chất gây đột biến có thể gây ảnh hưởng lên tế bào mầm hay tế bào sinh dưỡng ° Những sự đột biến xảy ra trong tế bào sinh dưỡng chỉ làm sinh ra những ảnh hưởng đột biến và, thường hơn, những ảnh hưởng ung thư lên cá thể bị tiếp xúc ° Những thế hệ tương lai chỉ bị ảnh hưởng khi các chất gây đột biến gây nên một sự thương tổn di truyền cho các tế bào mầm ° Các chất gây đột biến có khả năng gây nên những dạng tổn thương di truyền khác nhau, từ sự đột biến điểm phạm vi nhỏ trong một gen đơn cho đến phạm vi lớn là toàn bộ nhiễm sắc thể Sự đột biến điểm (Xem hình 87) o Sự đột biến điểm gây ra những ảnh hưởng quái thai phức tạp. o Ví dụ: Sai nghĩa do sự thay thế baz gây bệnh hồng cầu hình liềm (sickle-cell disease). Sự thay thế thymine bằng nucleotid adenine làm thay đổi codon đối với amino acid thứ sáu, từ CTC (acid glutamic) thành CAC (valine). Sự thay thế “đơn giản” này làm biến đổi trình tự amino acid có trong hai của bốn peptid tạo thành hemoglobin. Kết qủa là sẽ tạo thành các RBC có cấu tạo và chức năng dị thường Sự sai lệch nhiễm sắc thể o Là gì? Các sự đột biến phạm vi rộng (large-scale mutations) có thể gây ảnh hưởng lên cả cấu tạo lẫn số lượng các nhiễm sắc thể o Ảnh hưởng cấu tạo? Cấu tạo của nhiễm sắc thể bị thay đổi khi các thanh nhiễm sắc bị bẻ gãy hay trao đổi một cách không mong đợi, các tâm động không tạo thành được, hoặc các nhiễm sắc thể “vòng” được tạo thành Khi những đột biến này xảy ra trong qúa trình tạo giao tử và các giao tử này tham gia vào sự thụ thai, (các) nhiễm sắc thể bị biến đổi này có thể được truyền cho thế hệ con cái o Ảnh hưởng số lượng? Thể lệch bội lẻ và đa bội ° Thể lệch bội lẻ (aneuploid): Xuất hiện khi có thêm một hoặc mất đi một nhiễm sắc thể. Thuật ngữ trisomy (thể ba) hoặc monosomy (thể một), cũng như các công thức 2n + 1 và 2n – 1, được dùng để biểu thị những tình trạng lệch bội lẻ này. (Nhớ lại rằng trạng thái lưỡng bội (diploid) chứa 46 nhiễm sắc thể và vì vậy, 2n –1 = 46 – 1 = 45 và 2n + 1 = 46 + 1 = 47) ° Thể đa bội (polyploid): Xuất hiện khi có thêm một hay nhiều bộ nhiễm sắc thể do sự tạo thành các giao tử lưỡng bội (2n) chứ không phải đơn bội (n). Ví dụ, một tinh trùng lưỡng bội thụ thai với một trứng đơn bội sẽ cho một hợp tử tam bội (triploid, 3n = 69). Nếu cả tinh trùng lẫn trứng đều là lưỡng bội, hợp tử sẽ là tứ bội (4n = 92). Trong nông nghiệp, đa bội là một nguồn quan trọng của sự đa dạng di truyền. Tuy nhiên, đa bội ở người luôn luôn dẫn đến sự chết phôi ha chết thai. Trong một số trường hợp hiếm hoi, một neonate (trẻ sơ sinh 2-4 tuần tuổi), bất chấp có sự khiếm khuyết ở hầu như tất cả các cơ quan, có thể sống sót đến vài ngày (Đừng ngạc nhiên: Ở người, một số tế bào gan thường là tetraploid (tứ bội) hay 4n) Mang tính dị thường trong cấu tạo, các bộ đa của các nhiễm sắc thể trong giao tử có thể được truyền cho con cái. Sự góp phần của sự sai lệch nhiễm sắc thể trong tỷ lệ những ca sẩy thai tự phát và rối loạn di truyền có lẽ là đã bị đánh giá qúa thấp (Bảng 8-2) Thử nghiệm Ames o Thực tế: Các thử nghiệm sự nhiễm độc, để xác định tác nhân nào là tác nhân gây quái thai, là rất tốn kém tiền bạc và thời gian. Điều này đặc biệt đúng khi đối tượng thí nghiệm là các động vật có vú. Các động vật này rất đòi hỏi phải có nhiều tiền để nuôi dưỡng và thời gian thí nghiệm đòi hỏi phải lâu hơn do chúng có tốc độ phân chia tế bào chậm hơn o Giải pháp: Dùng vi khuẩn và tế bào loài có vú. Thử nghiệm Ames là thử nghiệm được dùng phổ biến nhất để thử tính gây đột biến. Thử nghiệm này dùng vi khuẩn Salmonella typhimurium là vi khuẩn đó có sự phân bào nhanh. Thử nghiệm này cũng rất hữu ích khi xác định các tác nhân gây ung thư, vì khoảng 90% các tác nhân ung thư đã được biết đến là có biểu hiện đột biến trong thử nghiệm Ames o Thế nào? °Thử nghiệm Ames dùng loại vi khuẩn đã bị đột biến trong gene mã hóa cho sự tổng hợp histidine. Bởi vì histidine cần thiết cho sự phân chia tế bào, những vi khuẩn này sẽ không nhân bản trừ khi, có một sự đột biến ngược xảy ra trong gene tổng hợp histidine, làm cho nó có khả năng cho phép tổng hợp được histidine trở lại °Vi khuẩn được cho tiếp xúc với tác nhân gây đột biến bị nghi ngờ trong môi trường sinh trưởng không có histidine (agar). Cũng có mặt trong môi trường là các vi thể (microsome) lấy từ gan chuột (rat), vì hoá chất thí nghiệm đòi hỏi phải có một sự chuyển hóa sinh học thành các chất chuyển hóa hoạt động (tức là, các chất gây đột biến) °Tốc độ nhân bội của vi khuẩn (tức là sự mọc khuẩn lạc, colony growth) được theo dõi. Nếu tác nhân bị nghi ngờ không phải là tác nhân gây đột biến, khuẩn lạc sẽ không mọc. Nếu nó là tác nhân gây đột biến, sự đột biến sẽ cho phép có sự tổng hợp histidine và sự mọc khuẩn lạc sẽ xảy ra H N N H CH2 H2N Histidine C COOH Sự gây ung thư Là gì? Sự tạo thành không kiểm soát được các tế bào Cơ chế? Phần lớn vẫn còn được biết rất ít do tính phức tạp liên quan đến sự phát triển của bệnh ung thư. Từ những nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu dịch tễ học Thuyet mot giai đoan va thuyet hai giai đoan (Hình 8-8) Sự gây ung thư (tiếp theo) Tác nhân gây ung thư được phân loại là genotoxic (độc gen) hoặc epigenetic (độc ngoài gen). - Tác nhân gây ung thư genotoxic là các tác nhân phản ứng với DNA. Chúng hoạt động trực tiếp trên DNA hoặc sự biểu lộ của DNA trong quá trình dịch mã. Các cơ chế genotoxic bao gồm sai sót trong sự tái bản DNA, các đột biến điểm, và sự sai lệch trong cấu trúc và số lượng của nhiễm sắc thể. - Tác nhân gây ung thư epigenetic là những tác nhân không phản ứng với DNA. Chúng không biến đổi trực tiếp DNA. Tuy nhiên, chúng có khả năng “gây ảnh hưởng” lên hoạt tính gây ung thư thông qua một số cơ chế. Chẳng hạn, làm gia tăng hoạt tính của các tác nhân gây ung thư genotoxic hoặc làm gia tăng hoạt tính của tế bào, điều chỉnh hoạt tính của hóc môn, hoặc làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Tất cả những tác động đó có thể dẫn đến sự tăng sinh tế bào (tức là ung thư) -Trên toàn thế giới, ung thư là nguyên nhân của 4.800.000 cái chết mỗi năm, đứng hàng thứ ba sau bênh tim mạch (12.000.000) và tiêu chảy (5.000.000) -Người ta ước lượng rằng ít hơn 5% của tất cả các ca ung thư là do nghề nghiệp, do chế độ ăn uống (~50%) và thuốc lá (~25%). Rất dễ dàng để thấy rằng tại sao WHO lại ước lượng có đến 90-95% ung thư là “có liên quan tới môi trường”. Cuối cùng, hãy nhớ rằng chế độ ăn uống, thuốc lá và nghề nghiệp là những mặt có thể kiểm soát được trong môi trường của chúng ta.