Buổi Chiều Trên Chiến Hạm Lexington

Download Report

Transcript Buổi Chiều Trên Chiến Hạm Lexington

Tôi đến thành phố Corpus Christi vào một buổi xế trưa, tuy mùa hè nhưng
thành phố biển đầy bóng cây xanh, gió từ đại dương thổi vào mát rượi.
Việc đầu tiên là tới thăm bà bạn già Enriqueta, một người bạn vong niên
người Mỹ gốc Mễ, chúng tôi quen nhau trong một lớp học Anh ngữ ở
Houston. Sau khi ông chồng qua đời, Enriqueta đã trở lại thành phố
Corpus Christi, nơi bà nói rằng đã coi như chỗ chôn nhau cắt rốn của
mình, khi tổ tiên bà từ Mễ Tây Cơ đến định cư ở Hoa Kỳ.
Bà Enriqueta năm đó độ bảy mươi tuổi mà vẫn hiếu học, dù bà nói tiếng
Anh rất lưu loát, nhưng vẫn chăm chỉ xách chiếc túi vải đựng dăm cuốn
vở, chút đồ ăn trưa đến lớp học thật đúng giờ, hơn cả những người trẻ
tuổi. Trong lúc ấy, ông chồng của bà đi lang thang trong khu công viên và
những con đường quanh khu trường học, nhặt những chiếc lon không. Bà
cho biết với số tiền bán lon này, hai vợ chồng già có thể trang trải cho món
tiền điện khá cao vào mùa hè, để bớt chút gánh nặng cho cô con gái.
Khi ông chồng chết vì bịnh suy tim, bà Enriqueta cũng từ giã lớp học và những người
bạn trẻ. Trước khi chia tay để trở về Corpus Christi, bà ghi lại cho tôi địa chỉ và số phôn
của bà, còn dặn dò khi nào có dịp, nhớ tới thăm bà và thành phố miền ven biển dễ
thương này.
Trong thời gian ngồi cùng lớp với bà bạn vong niên, tôi mới thấy giữa chúng tôi có nhiều
điểm khá giống nhau, bà Enriqueta cũng hay tâm sự với tôi về quê hương, về gia đình,
về căn nhà xưa thuở bà còn là một cô gái xinh đẹp. Bà còn tò mò hỏi tôi về cuộc chiến
tranh Việt Nam mà bà cũng có một người con trai đầu lòng, đã tình nguyện gia nhập
quân đội rồi hy sinh lúc tuổi vừa đôi mươi trên chiến trường Việt Nam. Qua những trao
đổi đó, dẫu không thể hiểu hết được tận cùng về cuộc chiến Việt Nam, nhưng tôi cũng
cố gắng bày giải cho bà hiểu nguyên nhân nào chúng tôi lại có mặt trên xứ Mỹ, để cùng
thông cảm với nhau về những bất hạnh do hậu quả của chiến tranh mang tới. Đó cũng
là nguyên nhân mà chúng tôi thân nhau, dù vốn liếng tiếng Anh kém cỏi, tôi cũng vẫn
hiểu được cái đau và nỗi nhớ triền miên trong lòng người mẹ, khi mất đi một người con
lúc tuổi còn thanh xuân, nhất là anh ta lại ra đi vì cuộc chiến tranh của đất nước tôi.
Trước khi đi, tôi đã gọi điện thoại và báo tin cho bà Enriqueta. Giọng bà
khàn đi vì xúc động, bà vẫn nhớ tôi, rất vui mừng khi nghe tôi sẽ tới thăm,
bà cho biết vẫn còn đủ sức khỏe để dẫn tôi đi thăm một vài nơi du lịch có
tính cách lịch sử , như chiến hạm Lexington đang neo trên bờ biển của
thành phố Corpus Christi.
Tôi vẫn không thể quên được người phụ nữ có mái tóc bạc trắng cắt ngắn,
dáng cao lớn, có cái lưng hơi khòm vẫn hay ôm tôi mỗi buổi sáng khi vào
lớp, với lời chúc lành cho một ngày gặp gỡ. Đến giờ nghỉ, ngồi ăn trưa với
nhau, bà vẫn hay thì thầm kể tôi nghe về căn nhà xưa, mùa hè đầy bóng
cây và gió từ biển khơi thổi vào mát rượi. Về mùa Đông, thành phố thưa
người đầy tĩnh lặng, âm u như những câu chuyện được thêu dệt nhiều
điều huyền bí về những di tích lịch sử của thành phố.
***
Năm, sáu năm rôì tôi mới gặp lại bà Enriqueta. Trông bà đã già hơn, vai
còng xuống nhưng nụ cười móm mém vẫn dễ thương như hôm nào. Tôi
mang xuống cho bà vài món ăn Á Đông mà bà thích, vẫn chỉ là món cơm
chiên với chả giò Việt Nam, thêm một chiếc khăn quàng mỏng để bà
quấn cổ. Bà cảm động lắm, đôi mắt nheo nheo như cố dấu đi giọt nước
mắt. Đó là cái tình của con người đối với nhau, nó vượt lên trên biên
cương của ngôn ngữ, của quốc gia, của tôn giáo, bà ôm chầm lấy cô
bạn cũ trẻ tuổi, như hồi tưởng lại những cái ôm đầy tình thân trong lớp
học những buổi sáng hôm xưa.
Chiều hôm đó, bà Enriqueta đưa tôi đi thăm chiến hạm Lexington. Bà nói,
nếu ai đã từng đến Corpus Christi, mà không đến thăm chiến hạm này là
một điều thật thiếu sót. Mới ba giờ chiều nhưng vì trời sắp muốn mưa
nên tối xầm lại, tôi vội vã cùng Enriqueta và vài người trong nhà lái xe đi
ngay, vượt qua chiếc cầu dài nối liền thành phố với con tàu, đứng ở bãi
biển trong thành phố, vẫn nhìn thấy con tàu như một khối sắt khổng lồ,
nằm im lìm trên mặt nước trong vắt màu xám đậm.
Chúng tôi còn ba tiếng đồng hồ để tham quan chiến hạm lịch sử này,
lúc này đã thưa người đi thăm viếng. Cơn mưa thưa khiến biển như
mờ mịt đi trong một nỗi buồn hiu hắt. Lâu lắm rồi tôi với Enriqueta
mới có dịp đi với nhau, bây giờ bà đã chậm chạp hơn, nhưng nhờ
thế mà tôi đã có dịp tách ra với những người thân, để có dịp đi chầm
chậm bên bà bạn già, vừa nghe vừa đoán những câu chuyện buồn
vui mà chúng tôi chia xẻ cho nhau.
Thong thả thì chúng tôi cũng đi vào lòng con tàu rộng thênh thang để
xem những ngõ ngách của nó, từng hàng dây xích sắt khổng lồ
được sơn đen trùi trũi, đó là những sợi giây neo của chiến hạm, chắc
hẳn ngày xưa những người thủy thủ phải thật vất vả khi điều khiển
cho con tàu neo vào một chỗ trên biển khơi, hay lúc neo lại trên một
bến đậu của những hải cảng xa xăm trên thế giới.
Thật tội nghiệp bà Enriqueta, với đôi chân già nua chậm chạp bà vẫn
thích thú đi với tôi leo lên chiếc cầu thang dựng đứng để lên những tầng
cao của con tàu, hay xuống dưới hầm để nhìn những căn phòng nhỏ
ngột ngạt. Nơi ngày xưa là chỗ ăn chỗ ngủ của người lính Hải Quân, đã
sống đã phục vụ trên chiến hạm này, đã tham gia vào cuộc chiến tranh
thời Đệ nhị thế chiến, và họ đã phải theo con tàu lênh đênh nhiều tháng
ngày trên những bờ biển xa tổ quốc.
Tôi đang nắm tay bà Enriqueta đi theo những hành lang dài và hẹp, qua
những phòng ngủ hẹp của thủy thủ ngày xưa, mà thật cảm thương cho
sự chật hẹp họ phải chịu trong lòng con tàu. Giường ngủ đóng như một
cái khung ba tầng, chỉ có một lối đi hẹp và ngăn đựng quần áo, họ đã
phải thay nhau ngủ mỗi người tám tiếng, mới có đủ chỗ cho người khác
ngủ trong một ngày. Mỗi chỗ tôi đang đứng, tôi cứ có cảm giác kỳ cục
như hình dung ra ở một thời gian nào của sáu mươi năm trước, đã có
biết bao nhiêu người lính đi lại chỗ này, xôn xao trò chuyện, đùa giỡn với
nhau trong cuộc sống gò bó của lòng tàu chật chội.
Đúng khi đó, chúng tôi cùng đứng lại trước thư viện của con tàu, nơi
cất giữ những hồ sơ từng thời kỳ của chiến hạm, từng năm tháng ,
từng trận đánh lịch sử mà chiến hạm Lexington đã tham dự. Bỗng một
người đàn ông đã lớn tuổi xuất hiện, lúc ấy tàu khá vắng vẻ, mọi
người đã đi xuống tầng dưới để nghỉ chân và uống nước, chỉ có tôi và
bà Enriqueta chậm chạp còn lần mò đi xem từng nơi chốn trên tàu.
Người đàn ông mặc một bộ quân phục Hải Quân đã cũ, nhưng rất
thẳng nếp. Ông lên tiếng, rất lịch sự và trang trọng khi nói với bà
chúng tôi:
" Tôi là Henry. Tôi có thể giúp gì cho quý vị?"
Bà Enriqueta nắm chặt lấy tay tôi, mỉm cười như hội ý. Người đàn ông
nói tiếp:
" Trước kia tôi đã từng làm việc trên chiến hạm lịch sử này, nay tuổi
già, tôi vẫn tiếp tục đến đây, tình nguyện hướng dẫn cho khách đến
thăm, và tôi có thể hướng dẫn quý vị đi thăm nhiều nơi chốn lịch sử
của chiến hạm."
Đúng ra, tôi vẫn không thể nào hiểu hết những gì ông ta nói, nếu không
nhờ bà Enriqueta cắt nghĩa lại thật chậm rãi bằng thứ tiếng Anh nửa nạc
nửa mỡ. Nhưng như có cái gì thúc đẩy, khiến tôi với bà cứ líu ríu đi theo
bước chân của người đàn ông vừa xưng tên là Henry. Với một thứ tiếng
Anh rất chuẩn, từ tốn và trang trọng, ông Henry nói với chúng tôi về lịch
sử của con tàu:
" Đây là chiến hạm Lexington CV- 16 , chiếc tàu thứ 5 và cũng là chiếc
cuối cùng của Hải Quân Hoa Kỳ, được mang tên lịch sử này từ ngày 17
tháng 2 năm 1943, sau khi chiếc Lexington thứ tư bị đắm trong trận chiến
trên biển san hô vào ngày 8 tháng 5 năm 1942.
Trong thế chiến thứ II, Hàng Không mẫu Hạm Lexington đã tham dự hầu
hết các chiến dịch quan trọng trên Thái Bình Dương, và đã từng nổi tiếng
với tên gọi là "Bóng ma xanh", không phải vì được sơn ngụy trang màu
xanh. mà vì đã được bộ máy tuyên truyền của Nhật lập đi lập lại nhiều
lần, là đã đánh chìm được nó dưới biển. Trong khi đó, chiến hạm này vẫn
tiếp tục tung hoành trên mặt đại dương, các chiến đấu cơ của nó mang
theo đã tiêu diệt 372 máy bay của Nhật ở trên không, và phá hủy 475
chiếc đang đậu dưới đất.
Sau thế chiến thứ II, Lexington đã được sửa chữa, tân trang để tái hoạt
động vào năm 1955, trong Đội hình của Đệ Thất Hạm Đội, xuất hiện tại
vùng biển Formosa, Lào và CuBa trong tình hình căng thẳng lúc bấy giờ.
Riêng trong cuộc chiến Việt Nam, Lexington cũng đã ghé vào cảng Cam
Ranh và Sàigòn .
Nghe ông Henry kể tới đây, bà Enriqueta vội chỉ về phía tôi và nói:
" Xin giới thiệu với ông, đây là cô bạn trẻ của tôi. Cô ấy là người Việt Nam."
Ông Henry gật đầu, hình như ông không có vẻ ngạc nhiên vì chuyện ấy.
Ông bình thản nói:
" Tôi đã biết cô ấy từ đâu tới."
Ông lại tiếp tục câu chuyện, không cần cắt nghĩa cho người khác hiểu về
sự hiểu biết đầy bí mật của ông:
" Bắt đầu từ năm 1962, Lexington trở thành mẫu hạm dùng để huấn luyện
cho Hải Quân Hoa kỳ tại Pensacola, tiểu bang Florida. Nó làm nhiệm vụ này
gần chẵn ba thập niên, cho mãi đến ngày 26 tháng 11 năm 1991 thì được
cho về hưu. Sau đó, mẫu hạm Lexington được kéo về làm " Viện Bảo Tàng"
nổi trên vịnh Corpus Christi, nghĩa là " Mình Thánh Chúa Kitô", một bãi biển
đẹp nổi tiếng của tiểu bang Texas, chỗ quý vị đang thăm viếng."
Đó là đôi dòng tiểu sử của chiến hạm Lexington 5, ông Henry kể sơ lược
cho tôi và bà Enriqueta nghe, dĩ nhiên là bà bạn già vẫn phải nói lại cho
tôi hiểu về gia phả của nó. Dường như ông Henry không định chỉ kể cho
chúng tôi nghe có bấy nhiêu, mà điều ông muốn làm là được đích thân
hướng dẫn tôi và bà Enriqueta đi thăm từng nơi chốn của con tàu,
những kỷ niệm riêng trong cuộc đời quân ngũ của ông đã gắn chặt với
nó nhiều năm tháng, khiến mỗi chỗ ông đưa tới, đều là những câu
chuyện sống động nhất.
Chúng tôi dừng lại nơi phòng ngủ của Vị Tư Lệnh Chiến hạm ngày xưa.
Một cái phòng nhỏ xíu, bàn ghế, đồ đạc rất đơn sơ, đó là nơi mà ngày
nào năm xưa, đã dành cho người chỉ huy chiến hạm nổi tiếng này.
Chúng tôi đi qua những nơi trưng bày kỷ vật của những người lính Hải
Quân một thời, với những bộ Đại Lễ trắng toát, những bộ quần áo xanh
thường dùng, cho tới chiếc bao thư nhỏ xinh xinh bằng bàn tay, trên đó
ghi lại nơi chốn người gửi và người nhận. Đó là những gì còn lại của
một thời kỳ xa lắc, lá thư với những giòng chữ viết tay rất chân phương,
lại biến thành kỷ vật của một người quân nhân đã từng phục vụ trên
chiến hạm.
Chúng tôi còn đi qua gian phòng khách danh dự của hạm trưởng, và
chỗ làm việc của ông, với nhiều tấm hình của các sĩ quan và binh sĩ đã
hy sinh . Mọi sinh hoạt của người lính đều diễn ra ở chốn này, từ phòng
ngủ, phòng ăn, phòng giải trí, hớt tóc, chỗ cầu nguyện, bịnh xá đều rất
nhỏ hẹp và vuông vức như những chiếc hộp. Khi đi tới chỗ nhà ăn, nhà
bếp, nơi mà ngày xưa những người thủy thủ ngày ngày xếp hàng rồng
rắn để lấy thức ăn, tôi thấy ông Henry khẽ nhăn mặt, như cố dấu đi nỗi
buồn chất chứa trong lòng ông, và hình như lúc ấy ông Henry lại được
nhìn thấy những khuôn mặt bạn bè đồng ngũ năm xưa. Ông nói:
" Đây là nơi mà ngày ngày mọi người tụ họp để lấy phần ăn cho họ,
nhưng cũng chính chỗ này có rất nhiều anh em của chúng tôi đã hy sinh
ở đây, khi có lần chiến hạm bị tấn công, thương binh quá đông mà bịnh
xá không còn chỗ chứa. Tất cả được dồn bớt xuống đây, trong khi trận
chiến vẫn đang tiếp diễn . Lúc ấy khung cảnh thật là hỗn độn, những
cầu thang nhỏ hẹp mà quý vị thấy, lúc ấy nhốn nháo người đi lên kẻ đi
xuống, bao nhiêu máu đã đổ ra ở đây, mùi thuốc và mùi thức ăn lẫn vào
nhau thật kinh khủng."
Chúng tôi chỉ im lặng nhìn chung quanh, hình dung chỗ này năm xưa, có
bao nhiêu người quân nhân trẻ tuổi vui đùa, chọc ghẹo nhau khi xếp
hàng đi lấy thức ăn, và cũng có bao nhiêu thương binh đã trút hơi thở
cuối cùng ở đó. Tự nhiên, nghe trong không gian gây gây một nỗi buồn,
tôi bỗng nhớ tới cuộc chiến tranh Việt Nam năm xưa, bao nhiêu máu
xương của những người lính vô danh đã đổ ra, đã nằm xuống mà giờ
này đã chìm vào quên lãng.
Ông Henry đưa chúng tôi tới khu bệnh xá, có những chiếc giường sắt
được phủ lên tấm chăn nhà binh màu xám đậm, chiếc sọc đỏ dệt ngang
trên tấm chăn, như chút máu còn đọng lại một vệt dài khiến tôi rùng
mình. Giọng ông Henry như khàn hơn vì xúc động, ông chỉ cho chúng tôi
xem những tấm hình chụp lại cảnh những cuộc thủy táng của người
lính ngoài vùng biển xa. Ông nói:
" Đây là hình ảnh buổi lễ an táng cho những người quân nhân xấu số .
Quý vị có thể thấy thi thể của họ được phủ khăn trắng toát, cột chặt lại
trên những chiếc băng ca bằng sắt. Xác họ sẽ được thả xuống biển, và
yên nghỉ trong lòng đại dương,vì thời đó chúng tôi chưa có phương tiện
để chở tử sĩ về chôn cất ở quê nhà. . . "
Tự nhiên khi nói tới đây ông bỗng nghẹn lời, im lặng cúi đầu như để dấu đi nỗi xúc cảm. Bà
Enriqueta cũng ứa hai hàng lệ, khi bà chợt nghĩ tới người con trai đầu lòng hy sinh ở chiến
trường Việt Nam. Nhìn hai người già rưng rưng nước mắt, khóc cho những người nằm
xuống từ hai nơi khác nhau, một trên biển khơi và một có thể nơi một căn cứ ở Việt Nam đầy
gió bụi mịt mờ. Những người chiến sĩ vô danh đó, bây giờ linh hồn họ phiêu bạt nơi nào, liệu
còn ai nghĩ tới. Giọng bà Enriqueta run rẩy vì xúc động:
" Tôi xin chia xẻ nỗi buồn này với ông, vì tôi cũng có một người con chết trong cuộc chiến
tranh Việt Nam. Không những thế, còn biết bao nhiêu người nữa đã hy sinh cho tổ quốc của
họ, cho lẽ phải, và chỉ có lịch sử mới trả lời được về những cái chết của họ mà thôi."
Ông Henry đưa chúng tôi vào một căn phòng khác, chỉù những chiếc ghế dựa xếp thành
hàng ngang. Ông nói:
" Đây là phòng họp hành quân của các phi công trước khi họ thi hành công vụ. Ngày xưa,
mỗi phi công có trách nhiệm và lái chiếc máy bay của họ, thành thử lát nữa lên boong tàu,
quý vị sẽ có thể nhìn thấy một số phi cơ chiến đấu cuả chúng tôi, trên thân tàu có ghi tên và
chức vụ của phi công. Đó là một số máy bay còn giữ lại để trưng bày, còn thì chiến hạm này
đã có không biết bao nhiêu chiếc phi cơ hạ cánh và cất cánh, có nhiều chiếc bay đi để rồi
không bao giờ trở lại. . . "
Câu nói của ông Henry đã làm tôi nhớ lại câu hát trong một bản Hành Khúc của Không Quân
Việt Nam " đi không mong tìm xác rơi". Đó là những hình ảnh hào hùng của những cánh chim
thời ly loạn. Trên đất nước tôi cách đây gần ba mươi năm trước, mỗi buổi sớm mù sương,
có những con tàu cất cánh bay lên, để rồi biền biệt đi vào vùng không gian đầy mây tím,
mang theo cả nụ cười và dáng dấp kiêu hùng của những người trai thời ly loạn. Đã có biết
bao nhiêu cuộc tình tuyệt vời, đẹp như mơ phải dang dở, biết bao nhiêu góa phụ nửa chừng
xuân , và làm sao kể hết những đứa con mồ côi cha trong cuộc chiến thảm khốc đó.
Dưới ánh sáng nhợt nhạt của những bóng đèn néon, đôi khi tôi thấy mặt ông Henry như
được đúc bằng sáp, như bóng dáng của những thi thể vừa ngoi lên từ đáy đại dương. Giá
như với không khí âm u và bàng bạc cái u buồn của con tàu, một mình tôi đã không có can
đảm để đi hết các nơi trong tầng hầm của chiến hạm. May là đã có bà Enriqueta bên cạnh,
bàn tay bà trong tay tôi rất ấm , cây Thánh Giá đeo trên cổ bằng bạch kim vẫn lấp lánh dươí
ánh sáng của ngọn đèn trần. Đúng khi ấy ông Henry đưa chúng tôi ra chiếc cửa thông ra khu
bãi đậu của những chiếc chiến đấu cơ , trời vẫn còn mưa, những hạt mưa thưa làm cho bầu
trời tối hẳn lại, phong cảnh càng thêm ảm đạm. Gió thổi phần phật, khiến cả ba người đều
ngại ngần đứng lại. Ông Henry đứng ở phía trong tấm rèm ni lông đầy bóng tối, tôi nghe ông
nói những lời từ biệt và cảm ơn chúng tôi đã tới thăm chiến hạm Lexington, nơi ông đã từng
phục vụ nhiều năm trong thời trẻ tuổi.
Đúng lúc đó, cô cháu gái của bà Enriqueta tất tả đi tìm chúng tôi để ra về, vì sắp tới giờ đóng
cửa. Sẵn có chiếc máy ảnh, tôi nhờ cô chụp cho chúng tôi vài tấm hình kỷ niệm với ông Henry.
Ông không từ chối, đứng lui về phía sau hai người phụ nữ thấp nhỏ hơn ông, hai tay ông ôm
trên bờ vai của tôi và bà Enriqueta. Trước khi chia tay, ông lấy một tờ giấy và nắn nót viết lại tên
và địa chỉ để ghi lại lần gặp gỡ đầy thân thiện.
Tuy vậy, cơn mưa chiều đã đi qua, trả lại cho thành phố Corpus Christi bầu trời quang đãng và
mát mẻ. Chúng tôi đi ăn chiều với nhau ở một nhà hàng Mễ , chỉ có rau quả và món soup gà
nóng thật ngon, ngồi bên nhau nhắc lại những kỷ niệm ở Houston, đến những người bạn Mễ
Tây Cơ và Việt Nam chung lớp hồi ấy. Bà Enriqueta có vẻ bị xúc động nhiều về cuộc hội ngộ bất
ngờ này, và chuyến đi thăm tàu Lexington với câu chuyện của ông Henry, người thủy thủ trên
chiến hạm Lexington.
Tối hôm đó, chúng tôi thả bộ ra bờ biển. Đêm nay là một đêm trăng tròn, ánh trăng như tỏa
xuống mặt biển làm thành một giải bạc lung linh trên mặt sóng. Sau cơn mưa, biển đêm hơi
lạnh, nhưng ánh trăng đã nhuộm một giải vàng sóng sánh trên mặt nước, khiến mặt nước đen
thẫm lại mang ít nhiều nét huyền hoặc đầy ma quái. Chiến hạm Lexington như một khối sắt
khổng lồ màu tím biếc, nằm im lặng như một ngôi mộ lớn, ánh đèn xanh lơ phản chiếu khiến
con tàu càng thêm vẻ âm u. Lúc ấy, trên boong không có ai qua lại, chỉ chơ vơ những chiếc phi
cơ chiến đấu, bấy giờ nó thật đúng nghĩa là " Bóng ma xanh" trong mắt nhìn của du khách và
dân địa phương.
Thêm một buổi sáng nữa chúng tôi đi thăm thành phố biển,
con đường dài nằm ven bờ biển có những ngôi biệt thự
xinh đẹp, ẩn mình trong những khu vườn đầy hoa lá và
bóng cây. Con đường này kéo dài mãi dọc theo bờ biển,
nhìn bản đồ, tôi biết đây là con đường dẫn tới một hòn đảo
tuyệt đẹp khác, thắng cảnh của tiểu bang Texas.
Chiều hôm đó, chúng tôi từ giã bà Enriqueta để trở về
Houston, lòng mang theo nhiều nỗi quấn quýt, vì nhìn bà
rồi lại nghĩ đến mình, tôi không biết đến một lúc nào đó,
liệu chúng tôi có còn những ngày vui như bây giờ không?
Tôi vẫn nhớ mãi bóng dáng bà cụ già Mễ Tây Cơ hiền lành
và chân thật, chiếc lưng còng, mái tóc ngắn bạc phơ, nụ
cười móm mém. Thôi thì cũng có một lần đến thăm bà, ghi
lại với bà vài tấm hình kỷ niệm trên chiến hạm lịch sử
Lexington.
Về nhà vài hôm, tôi mới đi rửa hình để gửi cho bà Enriqueta, và cũng để khoe với bạn bè về
chuyến đi chơi thành phố biển tuyệt đẹp, một thắng cảnh của tiểu bang Texas. Điều kỳ lạ là
trên những tấm hình của tôi và bà Enriqueta chụp chung với ông Henry, không có tấm nào có
hình ông trong đó, chỉ có hai người phụ nữ một già một trẻ đứng sát vào nhau mỉm cười. Tôi
chợt nhớ tới câu nói của bà Enriqueta hôm nào ," Thành phố của chúng tôi đầy những điều kỳ
diệu và khó hiểu." Bỗng dưng, tôi nhớ đến khuôn mặt như sáp nặn của ông Henry, dưới ánh
đèn néon nhợt nhạt trong phòng họp hành quân của các phi công, trước khi họ thi hành phi vụ
hành quân. Liệu rằng ông Henry có phải đã từng là một phi công, đã từng bay nhiều phi vụ
hiểm nghèo đối đầu với những phi công Thần Phong của Nhật?
Nghĩ thế, tôi vội lục túi tìm tờ giấy ông Henry đã nắn nót ghi lại tên ông và địa chỉ, bây giờ cũng
không còn chữ nào trên đó. Tôi có nằm mơ không? Tôi nghĩ là mình cần phải gọi phôn để kể
chuyện này cho bà Enriqueta, và tôi biết chắc là bà bạn già của tôi sẽ nói " Thành phố của
chúng tôi là thành phố đầy những điều khó hiểu."
Nguyên Nhung